GD&TĐ - Các cơ sở GD đại học đứng trước đòi hỏi
phải nâng cao chất lượng, chú trọng hơn năng lực nghiên cứu của giảng viên...
Nhóm nghiên cứu Dự án “Thông tin quang thông minh cho mạng dữ
liệu cực lớn” của Đại học Đà Nẵng đạt kết quả vượt trội so với thuyết minh đăng
ký ban đầu. Ảnh: Đại học Đà Nẵng cung cấp
Một trong những mục tiêu tại Chiến lược phát triển giáo dục
đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 là đến năm 2030, số lượng công bố khoa học và
công trình ứng dụng khoa học công nghệ tính bình quân trên một giảng viên toàn
thời gian đạt 0,6 công trình/năm. Điều này đòi hỏi các cơ sở giáo dục đại học
phải nâng cao chất lượng, chú trọng hơn năng lực nghiên cứu của giảng viên.
Mô hình nhóm nghiên cứu liên ngành
Các cơ sở giáo dục đại học đang khẩn trương thống kê, rà
soát số lượng đề tài nghiên cứu, công bố khoa học của giảng viên để xây dựng giải
pháp phù hợp, đảm bảo mục tiêu đạt bình quân 0,6 công trình/năm/giảng viên.
Với 156 giảng viên toàn thời gian, năm học 2023 - 2024, bình
quân công bố khoa học của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật (Đại học Đà Nẵng) đạt
0,403 bài/1 giảng viên/1 năm học.
PGS.TS Nguyễn Văn Hiếu - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư
phạm (Đại học Đà Nẵng) cho biết, tỷ lệ bình quân công bố khoa học và công nghệ/giảng
viên toàn thời gian như trên không quá cao. Nhà trường đã vượt con số này. Năm
2024, Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng) có 134 công bố quốc tế trên WoS,
Scopus; 436 công bố trong nước và quốc tế khác.
Tỷ lệ công bố quốc tế đạt 0,56 bài/giảng viên; tỷ lệ công bố
chung là 2,2 bài/giảng viên. Trong 5 năm từ 2020 - 2024, số lượng công bố công
trình nghiên cứu khoa học của nhà trường là hơn 2.000 bài, hơn 500 bài công bố
quốc tế trên WoS, Scopus.
Với đặc thù riêng, Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng)
đã có giải pháp để nâng tỷ lệ nghiên cứu khoa học cho giảng viên thuộc khối
ngành khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục.
Ngoài chính sách khen thưởng cho giảng viên có công bố khoa
học, nhà trường còn đặt mức thưởng 50 triệu cho giảng viên đạt chuẩn phó giáo
sư, 100 triệu đồng nếu đạt chuẩn giáo sư và bắt buộc giảng viên phải làm nghiên
cứu sinh. Trường còn đầu tư cho các công trình nghiên cứu khoa học trọng điểm với
mức 100 triệu đồng/công trình kèm theo yêu cầu phải có công bố quốc tế.
Để nâng chất lượng và gắn kết chặt chẽ, hữu cơ giữa 3 nhiệm
vụ nghiên cứu khoa học, giảng dạy và phục vụ cộng đồng của một giảng viên,
PGS.TS Nguyễn Văn Hiếu cho biết, Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng) đã
“gom” thành các nhóm nghiên cứu mạnh theo hướng liên ngành. Các nhóm nghiên cứu
này sẽ bám sát định hướng khoa học công nghệ của Chính phủ và Bộ GD&ĐT.
Xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh theo hướng liên ngành là
cách nhiều trường đại học đang triển khai. TS Nguyễn Minh Hải - Khoa Xây dựng -
Cầu đường, Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng) cho rằng, nghiên cứu đa
ngành đang và sẽ tiếp tục là xu thế của thế giới.
Trở về Việt Nam sau 15 năm học tập, giảng dạy và nghiên cứu
tại Nhật Bản, ngoài lĩnh vực chuyên môn là kết cấu công trình và vật liệu xây dựng,
TS Nguyễn Minh Hải đang cùng một số đồng nghiệp tại Việt Nam và Nhật Bản triển
khai một số đề tài liên quan đến quang học, hóa học, kiến trúc, giáo dục, xã hội…
“Khi lên ý tưởng nghiên cứu, tôi không bó buộc mình vào lĩnh
vực nào, miễn là dự án nghiên cứu có ý nghĩa và khả thi đối với ngành xây dựng
nói riêng và kỹ thuật nói chung của Việt Nam. Tôi sẵn sàng học lại từ đầu những
mảng kiến thức mình chưa có trước đó hoặc chủ động tìm kiếm, kết nối với những
đồng nghiệp chuyên sâu về lĩnh vực để học hỏi và cùng thực hiện”, TS Hải chia sẻ.
Giảng viên Đại học Duy Tân trong phòng lab tại Hàn Quốc. Ảnh:
NVCC
Đa dạng nguồn kinh phí hỗ trợ
Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ từ trường đại học
sẽ góp phần phục vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và địa phương. Tuy
nhiên, trong điều kiện ngân sách khiêm tốn, việc đạt mục tiêu 0,6 công
trình/năm/giảng viên là thách thức với nhiều trường đại học.
PGS.TS Võ Trung Hùng - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm
Kỹ thuật (Đại học Đà Nẵng) chia sẻ, dù mức công bố bình quân hiện nay đã vượt
chuẩn quy định của chuẩn cơ sở giáo dục đại học nhưng chỉ đạt 84% so với mục
tiêu chiến lược. Nhà trường vẫn gặp khó khăn về tuyển dụng giảng viên, thiết bị
nghiên cứu còn hạn chế. Đây là những thách thức trong việc duy trì mức công bố
bình quân hiện có.
Ngoài trích 5% nguồn kinh phí để hỗ trợ hoạt động khoa học
công nghệ, nhà trường khuyến khích giảng viên đăng ký đề tài các cấp và dự án
quốc tế, phối hợp doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học.
Chia sẻ kinh nghiệm bản thân, PGS.TS Đặng Tùng Lâm - Trưởng
khoa Tài chính, Trường Đại học Kinh tế (Đại học Đà Nẵng) cho hay, trình bày đề
xuất tài trợ nghiên cứu là kỹ năng không thể phủ nhận trong hành trình nghiên cứu.
Đề xuất tài trợ không chỉ là cơ hội để tìm kiếm nguồn lực cần thiết, mà còn là
dịp để trình bày ý tưởng nghiên cứu một cách thuyết phục, làm tăng khả năng
thành công của dự án và mở ra những cánh cửa mới.
TS Võ Thanh Hải - Phó Giám đốc Đại học Duy Tân chia sẻ kinh
nghiệm trong hợp tác quốc tế để khai thác cơ sở vật chất. “Khi xét duyệt, chúng
tôi ưu tiên đề tài của nhóm nghiên cứu liên ngành, liên trường. Như vậy, nghiên
cứu viên có cơ hội sử dụng phòng lab hiện đại của nhiều trường đại học hàng đầu
trong nước cũng như quốc tế. Nhờ vậy, Đại học Duy Tân có nhiều bài báo khoa học
mà kết quả nghiên cứu có được nhờ sử dụng phòng lab của các trường đại học ở
Đài Loan, Hàn Quốc”.
Theo
Báo Giáo dục và Thời đại